Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920, mất ngày 24 tháng 8 năm 1967, người làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông cũ, nay là xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.
Đinh Hùng là con út cụ Hàn Phụng (tên Phụng, chức quan Hàn lâm thị độc), thuở nhỏ theo bậc tiểu học tại Trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại Trường Bảo Hộ, tức Trường Bưởi tại Hà Nội. Sau khi đậu Cao đẳng Tiểu học hạng bình thứ và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi Tú tài bản xứ thì ông “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể của Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để theo nghiệp viết văn, làm thơ.
Năm 1931, người chị thứ ba của ông tên Tuyết Hồng, là một nữ lưu tân tiến và là một hoa khôi đất Hà Thành thời bấy giờ, đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn giận tình duyên. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng chết trẻ. Năm 1943, Đinh Hùng theo sống với chị là bà Thục Oanh. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi (NXB Tân Việt) và đăng thơ trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời nay của Tự Lực văn đoàn... Nhưng ông thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ Kỳ nữ mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh.
Năm 1944, Vũ Hoàng Chương cưới chị Thục Oanh về Nam Định, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Mai Châu... Năm 1944, Đinh Hùng tản cư theo báo Cứu quốc. Năm 1944, ông cùng vợ mới cưới là Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học. Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ cũng đang tản cư về nơi đó. Năm 1949, Đinh Hùng cùng vợ con về lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh đô văn nghệ (1952) và Mê hồn ca (1954).
Tháng 8 năm 1954, ông cùng vợ con vào Nam, lập ra tờ nhật báo Tự do, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong... Năm 1955, nhật báo trên đình bản, ông cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, giữ mục Tao đàn chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng trên báo Tự do, báo Ngôn luận.
Năm 1961, ông cho in tập Đường vào tình sử (tác phẩm này được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1962, ông cho ra tuần báo Tao đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư ruột. Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967.
Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sứ giả (tuỳ bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
Mặc dù Đinh Hùng có viết văn, viết kịch, nhưng ông nổi tiếng là nhờ thơ. Các thi phẩm Mê hồn ca, Đường vào tình sử là hai thi phẩm nổi trội, đánh dấu hai giai đoạn thơ của ông.
Đinh Hùng là con út cụ Hàn Phụng (tên Phụng, chức quan Hàn lâm thị độc), thuở nhỏ theo bậc tiểu học tại Trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại Trường Bảo Hộ, tức Trường Bưởi tại Hà Nội. Sau khi đậu Cao đẳng Tiểu học hạng bình thứ và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi Tú tài bản xứ thì ông “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể của Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để theo nghiệp viết văn, làm thơ.
Năm 1931, người chị thứ ba của ông tên Tuyết Hồng, là một nữ lưu tân tiến và là một hoa khôi đất Hà Thành thời bấy giờ, đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn giận tình duyên. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng chết trẻ. Năm 1943, Đinh Hùng theo sống với chị là bà Thục Oanh. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi (NXB Tân Việt) và đăng thơ trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời nay của Tự Lực văn đoàn... Nhưng ông thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ Kỳ nữ mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh.
Năm 1944, Vũ Hoàng Chương cưới chị Thục Oanh về Nam Định, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Mai Châu... Năm 1944, Đinh Hùng tản cư theo báo Cứu quốc. Năm 1944, ông cùng vợ mới cưới là Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học. Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ cũng đang tản cư về nơi đó. Năm 1949, Đinh Hùng cùng vợ con về lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh đô văn nghệ (1952) và Mê hồn ca (1954).
Tháng 8 năm 1954, ông cùng vợ con vào Nam, lập ra tờ nhật báo Tự do, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong... Năm 1955, nhật báo trên đình bản, ông cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, giữ mục Tao đàn chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng trên báo Tự do, báo Ngôn luận.
Năm 1961, ông cho in tập Đường vào tình sử (tác phẩm này được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1962, ông cho ra tuần báo Tao đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư ruột. Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967.
Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sứ giả (tuỳ bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
Mặc dù Đinh Hùng có viết văn, viết kịch, nhưng ông nổi tiếng là nhờ thơ. Các thi phẩm Mê hồn ca, Đường vào tình sử là hai thi phẩm nổi trội, đánh dấu hai giai đoạn thơ của ông.
Mê hồn ca (1954)
Đường vào tình sử (1961)
- Đường vào tình sử
- Truyện lòng21
- Hương
- Tự tình dưới hoa
- Ân tình dạ khúc
- Một tiếng em
- Khi lòng đầy hương
- Nụ cười thương nhớ
- Sóng nước đồng chiêm
- Bài hát mùa thu 2
- Chớp bể mưa nguồn
- Vào thu
- Ấm cúng1
- Giáp mặt phù dung
- Xin hãy yêu tôi
- Tần Hương
- Duyên phượng hoa
- Sóng Tây Hồ
- Sâm Thương sầu nhạc
- Mái tóc viễn phương
- Đường khuya trở bước
- Tiếng dương cầm
- Dạ hội
- Xuôi dòng mộng ảo
- Liên tưởng
- Hoài niệm
- Lạnh mùa đông cũ
- Gặp nhau lần cuối
- Bao giờ em lấy chồng
- Lời thề trên gối
- Hờn giận
- Cánh chim dĩ vãng
- Tâm tình cuối năm
- Thảo dã xuân tình
- Hoa bay về ngàn
- Xuân ấm hương rừng
- Tình lại mới
- Hy vọng chiều xuân
- Bướm xuân
- Thanh sắc
- Âm hưởng
- Tiếc bướm [Linh hồn Hoài Điệp]1
- Khi mới nhớn
- Đường về kỷ niệm
- Lạc hướng mây Tần
- Cặp mắt ngày xưa
- Dặm trường
- Buồn Á Đông xưa
- Du thuyền
- Tình ở miền sông núi tự do
- Hướng dương lòng nguyện
- Nếp áo sang thu
- Thuỷ mặc 1 (Hoa rơi yên ngựa)
- Thuỷ mặc 2 (Sóng hồ Ba Bể)
- Thuỷ mặc 3 (Đường trưa)
- Lâm tuyền viễn mộng
- Trở bước quê tình
- Gặp em Huyền Diệu
- Cung đàn tưởng niệm
Tuyển tập chung