Thứ Tư, 27 tháng 12, 2023
Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023
Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023
Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023
Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2023
Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2023
Thứ Tư, 13 tháng 12, 2023
Chảy nước mắt sống: Triệu chứng và cách khắc phục
Chảy nước mắt sống là tình trạng nước mắt tự chảy ra không kiềm chế được thường kèm theo tình trạng mắt mờ, nhiều ghèn, nhiều nước mắt, sưng đỏ.
Chảy nước mắt sống là gì?
Chảy nhiều nước mắt hay chảy nước mắt sống là tình trạng nước mắt tiết ra quá mức và liên tục. Bình thường, nước mắt được thoát xuống mũi, miệng không chảy ra ngoài. Khi nước mắt không thoát được sẽ trào ra ngoài từ góc trong của mắt, gây ra triệu chứng chảy nước mắt, mà dân gian thường gọi là chảy nước mắt sống.
Nếu tình trạng này kéo dài, nước mắt bị ứ đọng tại túi lệ có thể gây ra nhiễm khuẩn lệđạo. Túi lệ bị viêm, có nhầy mủ, nếu ấn vào vùng góc trong mắt thấy mủ đùn ra. Bệnh nhân có thể thấy đau nhức. Trẻ nhỏ mắc bệnh có thể có sốt, quấy khóc, hay dụi tay lên mắt.
Tùy thuộc vào nguyên nhân, mà triệu chứng chảy nước mắt sống có thể tự hết. Nếu nguyên nhân là do khô mắt, thì tình trạng này có thể được điều trị dễ dàng tại nhà.
Những nguyên nhân chính gây triệu chứng chảy nước mắt sống
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, tình trạng chảy nước mắt sống cũng xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tắc lệ đạo
Chảy nước mắt sống chủ yếu do tắc lệ đạo. Lệ đạo là ống thoát nước mắt dẫn từ góc trong của mi mắt dưới đến khe mũi dưới, gồm lỗ lệ, lệ quản, túi lệ, ống lệ mũi (ống lệ tỵ). Nước mắt sau khi làm “nhiệm vụ” bôi trơn và làm sạch bề mặt nhãn cầu sẽ được dồn về góc trong mắt rồi được dẫn vào lệ đạo, xuống mũi.
Do đó bạn sẽ thấy ở những người khóc nhiều, nước mắt qua lệ đạo tăng lên, làm chảy cả ra mũi. Tắc lệ đạo có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào, nhưng hay tắc nhất là ống lệ mũi. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi: từ trẻ sơ sinh đến người cao tuổi.
Tắc lệ đạo mắc phải thường do các chấn thương vùng mắt, xoang; viêm nhiễm mãn tính ở mắt như bệnh mắt hột, viêm kết mạc… có thể làm chít hẹp lệ đạo và gây tắc không hoàn toàn. Thực tế, hầu hết các trường hợp tắc lệ đạo mắc phải đều không rõ nguyên nhân, phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Chảy nước mắt sống làm cho bệnh nhân có cảm giác rất khó chịu, thường do tắc lệ đạo gây ra. Tắc lệ đạo có thể gây đau nhức, nhiễm khuẩn, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn tới những biến chứng tại mắt. Bệnh có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải.
Nhiễm trùng mắt
Một trong số những phản ứng của cơ thể khi mắt bị nhiễm trùng đó là chảy nước mắt. Đây là phản ứng của cơ thể để cố giữ mắt ẩm và rửa sạch các vi khuẩn và dịch nhầy.
Viêm kết mạc và viêm bờ mi là hai loại nhiễm trùng thường gặp và thường gây chảy nước mắt. Nguyên nhân có thể là do nhiễm vi khuẩn, nhiễm nấm và phổ biến hơn là nhiễm virus. Viêm kết mạc có thể xảy ra ở một hoặc cả hai bên mắt. Triệu chứng bệnh bao gồm đau mắt, nhìn mờ, đỏ mắt, cảm giác có sạn trong mắt, chảy nước mắt, hình thành rỉ mắt vào ban đêm cùng với việc tăng tiết nước mắt.
Dị ứng
Phản ứng với các tác nhân gây dị ứng có thể khiến mắt bị đỏ và kích thích, dẫn đến chảy nước mắt, nóng rát và ngứa mắt. Nguyên nhân phổ biến nhất gây dị ứng khi ở ngoài trời là cỏ, cây, phấn hoa và cỏ dại.
Các tác nhân gây dị ứng phổ biến nhất khi ở trong nhà là lông súc vật, mạt bụi nhà và nấm mốc. Khi bị chảy nước mắt do dị ứng bạn có thể sử dụng thuốc nhỏ mắt kháng histamin.
Khô mắt
Khi bị khô mắt sẽ bị kích thích và cảm thấy không thoải mái. Tình trạng này sẽ kích hoạt các tuyến lệ sản xuất ra quá nhiều nước mắt làm “quá tải” các ống dẫn nước mắt tự nhiên.
Việc sản xuất nước mắt sẽ giảm dần theo tuổi, do vậy, hội chứng khô mắt thường gặp ở người cao tuổi. Một biện pháp có thể làm giảm các trường hợp bị khô mắt nhẹ là sử dụng nước mắt nhân tạo.
Kính áp tròng đã cũ, bẩn
Ký sinh trùng Acanthamoeba là kẻ thù tiềm ẩn đối với mọi người sử dụng kính áp tròng. Theo các chuyên gia, loại ký sinh trùng đơn bào bé nhỏ này thường được tìm thấy trong nước máy, bụi, nước biển và các bể bơi. Chúng có thể tồn tại bằng cách ăn những vi khuẩn tồn tại trong những mắt kính áp tròng bẩn.
Khi các kính áp tròng nhiễm ký sinh trùng được gắn vào mắt người, Acanthamoeba bắt đầu ăn mòn giác mạc, lớp ngoài cùng của nhãn cầu và sinh sôi, nảy nở. Hậu quả từ cuộc tấn công của loại vi khuẩn này sẽ là các triệu chứng mắt ngứa rát, chảy nước mắt sống, nhìn mờ, nhạy cảm với ánh sáng, sưng phồng mí và đau mắt.
Một số nguyên nhân khác
– Do thần kinh: Lệ đạo được chi phối bởi nhánh thần kinh VII, khi bệnh nhân bị liệt dây VII sẽ gây ra chảy nước mắt và hở mi. Trong trường hợp này điều trị hở mi là quan trọng nhất để tránh loét giác mạc: Dùng kéo dài thuốc tra mắt dạng gel (Liposic, Corneregel…) hoặc khâu cò mi trong trường hợp hở mi nặng có nguy cơ loét giác mạc.
– Nguyên nhân khác là do mi mắt. Da mi thừa nhiều, sẹo mi, mỡ quanh hốc mắt làm cho điểm lệ không nằm trong hồ lệ (chỗ đọng nước đọng trong mắt) nên không hút được nước mắt: Phẫu thuật mi, lấy mỡ thừa có thể sẽ là phương án cần thiết đối với những bệnh nhân có tình trạng này.
– Giảm trương lực của túi lệ: Đây là nguyên nhân do tuổi già gây ra. Bình thường túi lệ có khả năng co bóp tạo lực hút nước mắt. Về già trương lực này giảm đi vì vậy nước mắt không được dẫn lưu tốt: Ở trường hợp này, bệnh nhân day vùng túi lệ sẽ cải thiện phần nào đó, day nắn làm tăng áp lực trong lòng túi lệ và đẩy về phía ống lệ mũi làm thông thoáng chỗ tắc.
Quy trình của thao tác này gồm: Đặt ngón tay trỏ lên phía trên lệ quản chung để ngăn chặn dịch thoát ra từ túi lệ (Lưu ý không chạm tay vào nhãn cầu). Sau đó miết ngón tay dọc sống mũi qua vùng túi lệ về phía cánh mũi. Day nắn như vậy 10 đến 15 lần. Nên áp dụng 3 – 4 đợt day nắn mỗi ngày. Việc điều trị thường do cha mẹ và người nhà bệnh nhân thực hiện tại nhà nên thầy thuốc cần hướng dẫn chu đáo, tỉ mỉ để đảm bảo đúng kỹ thuật.
Cách phòng ngừa, khắc phục tình trạng chảy nước mắt sống
Dù chảy nước mắt sống là bệnh thông thường nhưng vấn đề không phải là nhỏ, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Chảy nước mắt sống ngoài nguyên nhân chính là do viêm tắc lệ đạo thì còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân bệnh về mắt khác.
Vì vậy mọi người cần lưu ý tránh chấn thương cho mắt bằng các biện pháp như đeo kính khi lao động trong môi trường dễ bị dị vật bắn vào mắt như đi ngoài đường, nhất là khi có gió to cát bụi nhiều, khi làm việc như tuốt lúa, cưa gỗ, mài kim loại…
Đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông để phòng chấn thương vùng đầu và phòng chấn thương mắt.
Khám mắt định kỳ để phát hiện và điều trị tích cực các bệnh viêm nhiễm mạn tính ở mắt.
Do chảy nước mắt sống bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nên khi phát hiện triệu chứng viêm tắc lệ đạo, khô mắt chảy nước mắt,… bệnh nhân cần đi khám ngay ở các bệnh viện chuyên khoa mắt để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Ths.Bs Đỗ Minh Lâm
Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023
Thứ Hai, 11 tháng 12, 2023
Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2023
Thứ Năm, 7 tháng 12, 2023
Thứ Tư, 6 tháng 12, 2023
Thứ Hai, 4 tháng 12, 2023
Lịch sử Truyện Kiều
Lịch sử Truyện Kiều
Truyện Kiều - tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du
Truyện Kiều lúc đầu được Nguyễn Du đặt tên là Đoạn trường Tân Thanh, nghĩa là: Tiếng nói mới đứt ruột. Được viết dựa vào một tác phẩm cổ của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống vào đời nhà Thanh. Nội dung của Kim Vân Kiều truyện bắt nguồn từ một câu chuyện có thật xảy ra từ thời nhà Minh. Tại vùng quê phía Đông Trung Quốc, một toán cướp biển do Từ Hải cầm đầu thường xuyên đánh phá vùng Giang Đông. Triều đình cử quan Tổng Đốc Hồ Tôn Hiến cầm quân đánh dẹp toán giặc biển này. Câu chuyện được Mao Khôn, một người trong quân đội Hồ Tôn Hiến ghi lại trong sách: Ký tiểu trừ Từ Hải bản mật. Câu chuyện này về sau được nhiều người viết đi viết lại. Đới Sĩ Lâm viết: Lý Thuý Kiều truyện; Dư Hoài viết: Vương Thuý Kiều truyện; Trần Thụ Cơ viết: Hồ Thiếu Bảo bình nguy tấu tích; Mộng Giác Đạo Nhân viết: Từ tạ Từ Hải Nghĩa...
Nhìn chung, những tác phẩm này tình tiết có thay đổi ít nhiều so với sách của Mao Khôn. Nhưng tuyến chính của câu chuyện là mối quan hệ giữa Thuý Kiều và Từ Hải. Thuý Kiều là một kỹ nữ thông minh, xinh đẹp, lại có tài đàn hay, thơ giỏi. Từ Hải khi đánh phá vùng Giang Nam bắt được nàng, Từ Hải hết lòng yêu mến Thuý Kiều, về sau Thuý Kiều bị Hồ Tôn Hiến mua chuộc để dụ Từ Hải ra hàng.
Kết quả Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến giết, Thuý Kiều bị bắt. Trong tiệc mừng công, Thuý Kiều phải đánh đàn hầu hạ Hồ Tôn Hiến. Sau đó Hồ Tôn Hiến gả nàng cho một tên Tù trưởng người dân tộc thiểu số, Thuý Kiều đau khổ, nhục nhã nhảy xuống sông tự tử.
Câu chuyện này về cuối đời Minh, Thanh Tâm Tài Nhân viết lại một lần nữa, lần này câu chuyện được viết công phu hơn. Tác phẩm không còn là một câu chuyện ngắn đơn giản nữa mà trở thành một tiểu thuyết chương hồi. Toàn bộ tác phẩm chia làm 24 hồi. Đầu mỗi hồi có hai câu thơ tóm tắt đại ý, với một đoạn phê phán theo kiểu văn bạch thoại. Thỉnh thoảng xen vào những đoạn văn đàm luận. Kim Vân Kiều truyện có nhiều tình tiết phức tạp, nhiều nhân vật, nhiều sự kiện, lối miêu tả quá tỉ mỉ, vụn vặt dài dòng. Đặc biệt trong Kim Vân Kiều truyện quan hệ giữa Thuý Kiều và Từ Hải không phải là tuyến chính, mà tuyến chính là 15 năm lưu lạc của Thuý Kiều. Kết thúc tác phẩm không phải là Kiều tự tử trên sông Tiền Đường, mà còn có đoạn Kiều được vớt lên, được cứu sống về sau đoàn tụ với Kim Trọng.
Ở Trung Quốc, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không phải là một tác phẩm văn học cổ xuất sắc, không được mọi người ưa chuộng như tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chỉ khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời, được nhân dân ta yêu thích và thế giới ca ngợi thì ở Trung Quốc mới quan tâm tới tác phẩm Kim Vân Kiều truyện.
Truyện Kiều của Nguyễn Du không chia bằng hồi, nhưng bố cục vẫn theo Kim Vân Kiều truyện. Ông chỉ bớt đi những chi tiết rườm rà, những câu văn dài dòng, vô ích, các bài thơ cũng bớt. Nguyễn Du chỉ lấy ý tứ và một số hình ảnh tiêu biểu nhất đem diễn tả bằng thơ lục bát với 3.254 câu.
Từ trước đến nay các nhà nghiên cứu cho rằng: Nguyễn Du chọn đề tài Kim Vân Kiều truyện là vì ông thấy số phận của Thuý Kiều có phần giống cảnh ngộ của ông. Thuý Kiều vì gia biến mà phải bán mình chuộc cha, đem thân làm vợ người khác nên không trọn lời nguyền với Kim Trọng. Nguyễn Du mượn cảnh đó để nói lên nỗi lòng của mình, vì vận nước thay đổi mà phải đem thân làm bề tôi cho một triều đại khác nên không trọn đạo trung quân với nhà Lê. Mặt khác, ông cũng không thể đưa thực trạng xấu xa của xã hội phong kiến Việt Nam vào trong tác phẩm của mình. Vì vậy, ông mượn câu chuyện của Trung Quốc để viết là để tranh khỏi bị triều đình nhà Nguyễn bắt tội.
Về vấn đề Truyện Kiều được Nguyễn Du viết vào thời điểm nào? Cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra các luận cứ thuyết phục. Tháng 2 năm 1943, trên báo Thanh Nghị, cụ Hoàng Xuân Hãn căn cứ vào Đại Nam chính biên liệt truyện, cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều vào khoàng thời gian 1814-1820. Học giả Đào Duy Anh thì phủ nhận ý kiến ấy. Trong bài Nguyễn Du viết đoạn trường Tân Thanh vào lúc nào?, ông cho rằng chỉ căn cứ vào Đại Nam chính biên liệt truyện thì không hoàn toàn chính xác. Đào Duy Anh dựa vào Nguyễn Văn Thắng (bạn cùng thời với Nguyễn Du) tác giả của Kim Vân Kiều án, có nói Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã lưu hành rộng rãi ở nước ta từ trước. Trong lời tựa Kim Vân Kiều án, Nguyễn Văn Thắng dùng chức quan Hữu Tham Tri Bộ Lễ để chỉ Nguyễn Du. Theo Đào Duy Anh điều đó chứng tỏ Nguyễn Du viết Truyện Kiều vào lúc ông giữ chức Quan Đông Các, tức là từ năm 1805-1809.
Nhìn chung từ trước tới nay các nhà nghiên cứu Truyện Kiều mỗi người đưa ra một thời điểm khác nhau. Người này phủ nhận ý kiến người kia và cố chứng minh cho quan điểm của mình là đúng. Nhưng tựu trung lại đều thống nhất có ba thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều:
- Sau khi đi sứ Trung quốc về (sau 1813);
- Những năm làm quan cho nhà Nguyễn (từ 1802-1809);
- Những năm về sống ẩn dật tại quê nhà (1796-1802)
Ngoài ra, một ý kiến cho rằng: Nguyễn Du viết Truyện Kiều trong thời gian sống ở quê vợ tại Thái Bình (1786-1796).
Truyện Kiều của Nguyễn Du viết xong được khắc in ngay. Tương truyền, sau khi viết xong, Nguyễn Du đưa bản thảo cho Phạm Quý Thích xem. Phạm Quý Thích có chữa một số chữ trong bản thảo của Nguyễn Du, rồi viết lời tựa đưa in. Đổi tên sách Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du thành Kim Vân Kiều Tân truyện. Bản này về sau gọi là bản phường (In ở phường Hàng Gai, Hà Nội). Sau này vua Tự Đức nhà Nguyễn rất thích Truyện Kiều đã sửa chữa một số chữ và cho khắc in, dân ta quen gọi là bản Kinh (In ở Kinh Đô Huế). Cả hai bản này về sau được in đi in lại nhiều lần bằng chữ Nôm. Khi chữ Quốc ngữ ra đời lại được dịch ra Quốc ngữ, số lần in lại càng nhiều hơn. Bản Quốc ngữ đầu tiên là của Trương Vĩnh Ký in năm1875.
Truyện Kiều ra đời được nhân dân ta đón đọc một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội. Từ các bậc vua chúa, quan lại, văn nhân, sĩ tử đến cả những người dân không biết chữ cũng học thuộc lòng và lấy làm vui thích.
Năm 1830, vua Minh Mạng, một người thông minh, hiếu học, tinh thông nho học và sùng đạo Khổng, say mê Truyện Kiều, đã mở đợt bình Kiều đầu tiên. Nhà vua đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại để cho đời sau.
Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các nhà khoa bảng trong triều để bình và vịnh Kiều. Mở văn đàn tại Phú Văn Lâu, mặc dù Phú Văn Lâu là nơi để nhà vua ban bố những văn kiện và có tính quốc gia đại sự.
Năm 1905, Tổng Đốc Hưng Yên là Lê Hoan mở hội Tao Đàn thi văn chương về Truyện Kiều. Nhiều nhà khoa bảng, quan lại tham dự, nhà thơ Nguyễn Khuyến làm giám khảo. Trong cuộc thi này Chu Mạnh Trinh được giải nhất với 21 bài thơ vịnh Kiều. Ở thế kỉ XIX, Truyện Kiều được nhân dân ta ưa chuộng, say mê. Chu Mạnh Trinh có thể được xem là một trang văn nhân tài tử mê Kiều. Vua Tự Đức đã từng trách cứ các quần thần về việc mê Kiều với câu nói được truyền tụng khắp nước thời bấy giờ: "Mê gì mê đánh tổ tôm, mê ngựa hậu bổ, mê nôm Thuý Kiều".
Sang thế kỷ XX, Truyện Kiều có ảnh hưởng sâu rộng trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Do yêu thích Truyện Kiều mà nảy sinh nhiều loại hình nghệ thuật văn chương chung quanh Truyện Kiều như: Tập Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều... Thậm chí còn dùng Truyện Kiều để bói toán vận hạn tốt xấu. Truyện Kiều được dựng thành phim, đưa lên sân khấu tuồng, chèo, cải lương, hội hoạ... và còn có cả một cuốn từ điển Truyện Kiều để đọc giả, các nhà nghiên cứu điển tích, ngữ nghĩa.
Mặc dù Truyện Kiều ra đời cách đây mấy trăm năm, nhưng đến nay các nhà xuất bản hàng năm đều xuất bản với số lượng lớn, được nhân dân đón đọc thích thú. Truyện Kiều đã được dịch và xuất bản bằng nhiều thứ tiếng trên Thế giới: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, Hunggari, Bungari, Ả Rập, Lào, Thái Lan...
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đều đánh giá cao Truyện Kiều. Năm 1926 dịch dả người Pháp Rơ-ne-cry-săc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, trong bất kỳ thời đại nào". Ông so sánh "Trong tất cả nền văn chương Pháp, không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Cuối cùng ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc".
Tháng 12 năm 1965, Hội đồng Hoà Bình thế giới ra Quyết định kỉ niệm Nguyễn Du cùng với 8 danh nhân lỗi lạc của nhân loại trên thế giới.
Sỹ Hồng
Ngọn hải đăng của thi ca Việt Nam
Nguyên Trang binh luận truyen Kieu cua Thanh Tam Tai Nhan:
Sau đây là trích đoạn tôi thấy là đáng nhớ nhất truyện. Tuy nhiên tôi đọc cũng chưa hiểu rõ. Ai hiểu giải thích giúp hoho:
"Nếu nhà gái đĩ cũng như những nhà lương dân thì còn ma nào đến đây chơi nữa? Trong đó còn có nhiều cái thú để mẹ thong thả giảng cho con nghe, con cần phải nhớ vào lòng cho kĩ! Này nhé! Nếu khách chè chén xong, sắp lên giường, mình phải nhường khách nằm trước vào phía trong, mình nằm ngoài, mặt phải quay vào phía khách, giang tay ra cho khách gối đầu. Sau đó khách nhất định sờ mó khắp người con, thì con cũng đưa tay sờ bộ hạ của họ. Nếu bé, ngắn thì mình dùng phép “Đánh trống giục hoa"; nếu to, dài thì mình dùng phép “Sen ròng khoá xiết”. Nếu người cấp tính thì dùng phép “Mở cờ đánh trống”; người tính hoãn thì dùng phép “Đánh chậm gõ sẽ”; người không dai sức, dùng phép “Đỡ dần buộc chặt”; người dai sức, dùng phép “Gắn bó truy hồn”; người mê sắc thì dùng phép “Dềnh dàng cướp vía". Thế là tám nghề, kể ra cũng còn nhiều phép nữa, nhưng đại khái cũng không ra ngoài tám phép này. Sau khi luyện xong công phu về chăn gối rồi thì phải học đến những mánh khoé thường dùng hàng ngày. Mánh khoé ấy gồm có bẩy chữ: Thứ nhất là Khóc. Tiếp được khách có tiền ở lại ít lâu, lúc họ định ra về, thì mình phải khóc: “Tình lang ơi! Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi cho đành”. Giả cách nũng nịu ngây thơ quyến luyến không rời xa, thì khách dù có gan dạ cứng rắn như thế nào cũng phải ở lại. Hoặc có khi gặp tay lõi đời, họ tất nói: “Nàng ở đây, khách đến khách đi luôn luôn thì làm sao mà lưu tình cho hết được. Ta với nàng chẳng qua là gặp thú thì chơi mà thôi, nàng coi thế nào như thật được”. Thế thì mình phải nghẹn ngào khóc rằng: “Thế mới biết đàn ông cay độc thật. Đừng nói đôi ra tương đắc, quyến luyến không rời, dù cho một cục đá, ôm lâu thì cũng nóng nữa. Thiếp khách tuy nhiều, nhưng chung tình có một, thiếp thật là quyến luyến không nỡ rời chàng". Thế rồi hai hàng nước mắt tầm tã chứa chan thì dù người sắt tất cũng phải mềm, mà không thể dứt lòng ra đi được!... Thứ hai là Xén. Khách ở lâu có ý mê mình thì mình phải tính kế để lấy lòng khách. Sợ khi bạn bè khách có kẻ thấy hai người yêu nhau muốn phá đám thì mình với khách phải bảo nhau cùng xén một ít tóc, trộn lại làm một mớ, rồi chia làm đôi, mỗi người buộc một nửa vào cánh tay để tỏ ra ý muốn kết tóc, tất nhiên khách cho mình là có lòng thật mà không nỡ rời. Thứ ba là Thích. Hai bên đã tương đắc, tất phải dùng đến ngón mạnh hơn để buộc lấy lòng khách. Mình phải hoặc ở cánh tay, hoặc ở bắp chân, dung kim thích mấy chữ “Chồng tên là Mỗ...Mỗ”, rồi lấy mực xoa vào, khiến rửa không sạch ngấn, để khách trông thấy, sẽ cho là mình riêng chung tình với khách, tất khách phải mắc mưu chết mê chết mệt với mình. Nếu khách ấy đi rồi, có khách khác đến sau thấy vậy, tất phải nghĩ ràng: “Không biết người ấy người nọ đối đãi với cô ta thế nào mà cô phải quyến luyến như thế”. Khách tất lại phải càng xử hậu với mình để hòng tránh lấy cái yêu của mình đối với người trước. Thế thì mình phải nhân đó dùng mẹo, nhăn nhó khóc nói: “Chàng nọ đã vì thiếp tiêu tốn bao nhiêu tiền, dụng tình thế nào, chiều chuộng thế nào mà thiếp chưa hề có gì báo đáp được chàng”. Nói xong giả chảy nước mắt, tất khách phải cảm động mà phải vung tiền ra nữa với mình. Thứ tư là Đốt: đốt là kế khổ nhục. Hiện nay chị em quỷ quyệt mà khách làng chơi cũng nhiều tay khôn khéo. Muốn được khách vui lòng để mình bòn tiền của nó, nếu không có cách gì khua động lòng khách một cách mạnh mẽ, thì lung lạc thế nào được khách sa vào tay mình, đành phải dùng đến kế khổ nhục này. Mình với khách phải cùng phát thệ: trai không đổi lòng, gái không hai dạ, nếu sau phản phúc, thần người đểu giết v.v. Rồi hai người cùng chích, huyệt thứ nhất chích với người yêu thứ nhất, ân tình nhiều nhất, gọi là “nguyện đồng tâm”. Hai người mở áo, bụng kề bụng, da kề da, dùng hương mà chích; thứ hai, gục đầu vào nhau mà chích, gọi là “nguyện kết tóc"; thứ ba, tay tả mình khít với tay tả khách cùng chích, gọi là “hứa nguyện liên tình" bên tả; thứ tư, tay hữu mình khít với tay hữu của khách cùng chích, gọi là “hứa nguyện liên tình” bên hữu; thứ năm, đùi tả mình khít với đùi hữu khách cùng chích, gọi là "hứa nguyện giao đùi” bên tả: thứ sáu, đùi hữu mình khít với đùi tả khách cùng chích, gọi là “hứa nguyện giao đùi” bên hữu. Ngày xưa Tào Tháo đem tám mươi ba vạn quân xuống đánh Giang Nam mà còn bị kế khổ nhục của Hoàng Cái đánh diệt hết nữa là? Huống chi mấy thằng con trai ngu xuẩn trên đời này, nếu mình chịu khổ, đốt hương cùng chích với chúng thì chúng dù có tan cửa nát nhà cũng không phàn nàn. Thứ năm là Giá. Khách làng chơi không nói lấy nhau thì còn gì thú vi. Mà chị em không nói “gá” với nhau, thì còn có gì là ôn tồn nữa. Nhưng tiếng gá của gái đĩ không thể so sánh với tiếng lấy của các cô gái con nhà nề nếp được. Tiếng gá ở đây là khéo léo, đo người cắt áo gặp cảnh sinh tình. Khách là con nhà giàu hỏi thân giá mình chừng bao nhiêu, mình nên nói: “Nguyên nhân giá em bán cho chủ là ngần ấy tiền, tiếp khách cho chủ mấy năm được bao nhiêu tiền, cũng đã được vốn được lời rồi, ngày nay bất quá chỉ trả cho chủ chừng hơn trăm lạng nữa là được thôi. Thế rồi, suốt ngày mình thề bồi, bàn cách lấy nhau, làm cho khách mê mẩn tâm thần, tự nhiên có đồng nào bỏ ra hết. Chừng khi chi tiêu hết tiền rồi, không có gì mà cưới mình nữa thì mình không phải đuổi, khách cũng tự ngoan ngoãn rút lui thôi. Thứ sáu là Chạy. Đây là cách khéo nhân kế dùng kế. Khi khách đã chơi hết tiền, muốn cưới thì không có của, muốn chơi thì không có tiền, muốn tống khách ra khỏi cửa thì chỉ có một cách giả chạy trốn là lừa được nó. Mình giả hẹn khách thuê thuyền ở chỗ nào, lừa cho khách thật tin, không chút ngờ vực. Rồi đến ngày thu xếp ra đi, mình bí mật máy người đến phá đám, dậm dạo định bắt trình quan, như vậy khách tất nhiên mắc cỡ, phải lảng rút lui. Ấy là mẹo giả binh đó. Khách cứ tưởng là duyên hôi phận bạc, việc vui mừng bị phá vỡ, chớ có ngờ đâu là đã mắc mưu kế “đà đao” của mình! Thứ bẩy là Chết. Chết đây là chết giả, chớ không phải chết thật đâu. Hai người thân nhau, coi chừng lòng khách đã dao động thì mình bảo khách: “Thiếp sống là vợ của chàng, chết là ma nhà chàng. Thiếp quyết lấy chàng, nếu chàng không lấy thiếp thì dù chết cũng chết ở bên mình chàng”. Nếu khách đã có thê có thiếp, mình biết rõ là khách không thể lấy mình, thì bảo: ‘Thiếp không thể làm vợ chàng, thật là uổng cả mối tình thân mật đối với chàng. Thiếp tuy tiếp khách đã nhiều, song không được mấy ai ôn tồn như chàng. Nếu chàng không thể lấy thiếp thì đôi ta song song cùng chết, còn hơn là sống ở đời mà phải xa nhau. “Giải đồng không kết kiếp này- Thì xin kiếp khác làm cây liền cành”. Như thế không lo gì khách không giốc một lòng với mình, dù phải khánh kiệt gia tài cũng là cam chịu. Đó, con mà nắm vững được cái bí quyết của bẩy chữ ấy, thì có thể nhẩy lên sân khấu mà làm nhiều trò tiểu xảo nữa... Đứng trước cửa thấy khách nhìn mình thì mình phải tươi cười đưa đón. Nếu có hàm răng đẹp đẽ, thì cười để lộ răng, cốt khoe cái đẹp gọi là Dùng răng bạc. Nếu chân nhỏ nhắn thẳng thiu, thì dẫm lên bậc cửa, cúi đầu ngắm nghía, gọi là Phượng gật đầu. Nếu vóc người đẹp thì ra ngoài bước đi, gọi là Hiện thân thuyết pháp. Nếu tay đẹp thì để lộ nửa ngón tay búp măng; nếu tóc mây thì nghiêng nghiêng khẽ vén hoặc khoé mắt đưa tình, hoặc ngâm nga gợi ý. Nghĩa là phải làm sao để khơi động lòng xuân, khêu gợi lòng dục của khách làng chơi. Thạo những ngón kể trên, thì có thể làm đĩ vậy."
Truyện Kiều Wikipedia
Truyện Kiều
Truyện Kiều | |
---|---|
Truyện thơ | |
Bản Đoạn trường tân thanh (斷腸新聲) in năm 1902 và Kim Vân Kiều tân tập (金雲翹新集) khắc in năm 1906. | |
Thông tin tác phẩm | |
Tên gốc | Đoạn trường tân thanh (斷腸新聲) |
Tác giả | Nguyễn Du |
Thời gian sáng tác | Trước 1814 hoặc từ 1814đến 1820 |
Triều đại sáng tác | Cuối nhà Hậu Lê – đầu nhà Tây Sơn hoặc nhà Nguyễn |
Quốc gia | Việt Nam |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt (Chữ Nôm) |
Thể loại | Truyện thơ |
Wikisource | Truyện Kiều |
Bài viết này có chứa ký tự Tiếng Việt. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khácthay vì chữ Nôm, chữ Hán. |
Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều(chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3.254 câu.
Hoàn cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814–1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối thời Lê đầu thời Tây Sơn.[1] Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn.[2] Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức.[2]
Truyện dựa theo bộ truyện văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân[3], lấy bối cảnh Trung Quốc thời vua Gia Tĩnh Đế đời nhà Minh (từ năm 1521 tới năm 1567).
Bản in khắc đầu tiên năm 1902 có tựa chính thức là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲). Đoạn- đứt; trường- ruột; tân- mới; thanh- tiếng kêu. Mang nghĩa là " tiếng kêu mới về nỗi lòng đau đứt ruột".
Lược truyện[sửa | sửa mã nguồn]
Tác giả nêu luận đề[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện
Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Tả hai chị em[sửa | sửa mã nguồn]
Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông, trong một gia đình viên ngoại (員外) họ Vương (王) có ba người con là Thuý Kiều (翠翹) (trưởng nữ), Thuý Vân (翠雲) (thứ nữ) và Vương Quan (王觀) (con trai út). Hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài sắc" thì Thúy Kiều "lại là phần hơn".
頭弄𠄩婀素娥 翠翹羅姊 ,㛪羅翠雲 梅骨格 ,雪精神 ,Truyện Kiều
𠊚沒𨤔Bách khoa toàn thư mở WikipediaĐối với các định nghĩa khác, xem Kiều.Truyện Kiều Truyện thơ Bản Đoạn trường tân thanh (斷腸新聲) in năm 1902 và Kim Vân Kiều tân tập (金雲翹新集) khắc in năm 1906.Thông tin tác phẩm Tên gốc Đoạn trường tân thanh
(斷腸新聲)Tác giả Nguyễn Du Thời gian sáng tác Trước 1814 hoặc từ 1814đến 1820 Triều đại sáng tác Cuối nhà Hậu Lê – đầu nhà Tây Sơn hoặc nhà Nguyễn Quốc gia Việt Nam Ngôn ngữ Tiếng Việt
(Chữ Nôm)Thể loại Truyện thơ Wikisource Truyện Kiều Bài viết này có chứa ký tự Tiếng Việt. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khácthay vì chữ Nôm, chữ Hán. Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều(chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3.254 câu.
Hoàn cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814–1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối thời Lê đầu thời Tây Sơn.[1] Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn.[2] Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức.[2]
Truyện dựa theo bộ truyện văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân[3], lấy bối cảnh Trung Quốc thời vua Gia Tĩnh Đế đời nhà Minh (từ năm 1521 tới năm 1567).
Bản in khắc đầu tiên năm 1902 có tựa chính thức là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲). Đoạn- đứt; trường- ruột; tân- mới; thanh- tiếng kêu. Mang nghĩa là " tiếng kêu mới về nỗi lòng đau đứt ruột".
Lược truyện[sửa | sửa mã nguồn]
Tác giả nêu luận đề[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện
Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. Tả hai chị em[sửa | sửa mã nguồn]
Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông, trong một gia đình viên ngoại (員外) họ Vương (王) có ba người con là Thuý Kiều (翠翹) (trưởng nữ), Thuý Vân (翠雲) (thứ nữ) và Vương Quan (王觀) (con trai út). Hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài sắc" thì Thúy Kiều "lại là phần hơn".
頭弄𠄩婀素娥 翠翹羅姊 ,㛪羅翠雲 梅骨格 ,雪精神 每𠊚沒𨤔 ,𨑮分援𨑮 Kiều thăm mộ Đạm Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Trong một lần đi tảo mộ vào tết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên (淡仙), một "nấm đất bên đường", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan", "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:
𤴬疸台分彈婆 𠳒分薄拱𠳒終 Kiều gặp Kim Trọng[sửa | sửa mã nguồn]
Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng (金重), là một người "vốn nhà trâm anh", là bạn đồng môn với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:
- Người đâu gặp gỡ làm chi,
- Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Trọng – Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo và biết giữ mình, cô đã thuyết phục được Kim Trọng chờ đợi tới ngày hai người kết hôn:
- Đã cho vào bậc bố kinh
- Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
- Ra tuồng trên bộc trong dâu.
- Thì con người ấy ai cầu làm chi
- ...
- Vội chi liễu ép hoa nài,
- Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
- Thấy lời đoan chính dễ nghe,
- Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Kiều bán mình chuộc cha và em[sửa | sửa mã nguồn]
Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Thằng bán tơ đã lén chôn một chai rượu vào vườn nhà Kiều rồi vu oan cho Vương ông tội buôn lậu rượu. Ngay lập tức, bọn sai nha xông vào, treo ngược Vương ông và Vương Quan lên trần nhà. Trong hoàn cảnh lâm li bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha và em, nhưng nàng không quên lời hẹn ước với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
- Cậy em, em có chịu lời,
- Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:
- Phận sao phận bạc như vôi
- Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
- Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
- Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.
Kiều ở Lầu Ngưng Bích[sửa | sửa mã nguồn]
Mã giám sinh (馬監生, nghĩa: "giám sinh họ Mã") vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú Bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về lầu xanh. Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về với giá 400 lượng vàng, bề ngoài Mã giám sinh tuyên bố là lấy Kiều về làm vợ. Nhưng sau khi lấy đi sự trong trắng của Kiều, "con ong đã tỏ đường đi lối về". Hắn đưa Kiều vào lầu xanh, ở đây nàng đã bị Tú bà (秀婆, nghĩa là "bà Tú") bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà hoảng hốt bèn giả vờ ngọt ngào: "Con cứ bình tĩnh. Tất cả chỉ là hiểu lầm. Nếu con cảm thấy nghề kỹ nữ là nghề nhục nhã thì thôi không phải làm nữa. Ta sẽ gả chồng cho con để lấy lại 400 lượng vàng" và nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích (凝碧). Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng
- Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
- Tin sương luống những rày trông mai chờ
- Bên trời góc bể bơ vơ
- Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
- Xót người tựa cửa hôm mai,
- Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
- Sân Lai cách mấy nắng mưa,
- Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:
- Buồn trông cửa bể chiều hôm
- Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
- Buồn trông ngọn nước mới sa
- Hoa trôi man mác biết là về đâu?
- Buồn trông nội cỏ rầu rầu
- Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
- Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
- Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi...
Kiều mắc lừa Sở Khanh[sửa | sửa mã nguồn]
Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh (楚卿), một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lừa gạt sáo rỗng của Sở Khanh.
- Than ôi! Sắc nước hương trời,
- Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?...
Kiều vội vàng tin Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
- Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
- Một tay chôn biết mấy cành phù dung!...
Bị Tú bà đánh, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
- Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
- Giật mình, mình lại thương mình xót xa…
Kiều gặp Thúc sinh[sửa | sửa mã nguồn]
Thúc sinh (束生, nghĩa là "thư sinh họ Thúc") tuy đã có vợ là Hoạn thư (宦姐, nghĩa là "chị Hoạn") nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
- Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
- Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên...
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
- Khi hương sớm khi trà trưa,
- Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn...
Thúc sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc ông (束翁, nghĩa là "ông Thúc"), cha của Thúc sinh, thừa nhận. Thúc ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
- Phong lôi nổi trận bời bời,
- Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
- Quyết ngay biện bạch một bề,
- Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!...
Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:
- Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
- Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
- Phận đành chi dám kêu oan,
- Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
- Một sân lầm cát đã đầy,
- Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
Thấy Thúc sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh.
Kiều và Hoạn thư[sửa | sửa mã nguồn]
Khi biết chuyện, cha Thúc sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi nhận thấy Thuý Kiều tâm hồn đức hạnh lại tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, cha của Thúc sinh cũng đành thừa nhận Kiều:
- Thương vì hạnh trọng vì tài,
- Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Kiều đã ở cùng Thúc sinh suốt một năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc sinh về thăm vợ cả Hoạn thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc sinh không ngờ rằng Hoạn thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn thư với cái tên là Hoa Nô (花奴). Lúc Thúc sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn và rất buồn bã
- Bốn dây như khóc như than,
- Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng.
- Cũng trong một tiếng tơ đồng,
- Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Thúc sinh bảo Hoạn thư tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các (觀音閣) sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!"," Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp vãi Giác Duyên (覺緣). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc bà (薄婆, nghĩa là " bà họ Bạc"), một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ "Bạc bà cùng với Tú bà đồng môn", Bạc bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh (薄幸). Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.
Kiều gặp Từ Hải[sửa | sửa mã nguồn]
Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải (徐海), một anh hùng lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:
- Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
- Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
- Từ rằng: "Tâm phúc tương tri
- Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?..."
Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy (于歸).
Kiều báo ân trả oán[sửa | sửa mã nguồn]
Lúc vui mừng cũng là lúc Thúy Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Bạc bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp vãi Giác Duyên, được vãi báo rằng năm năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận chưa đoàn tụ ngay được với gia đình.
Kiều tự vẫn[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
- Trên vì nước, dưới vì nhà,
- Một là đắc hiếu hai là đắc trung..
Từ Hải đã phân vân:
- Một tay gây dựng cơ đồ,
- Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
- Bó thân về với triều đình,
- Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
- Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
- Vào luồn ra cúi công hầu mà chi.
- Sao bằng riêng một biên thùy,
- Sức này đã dễ làm gì được nhau.
- Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
- Dọc ngang nào biết trên đầu có ai...
Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:
- Mặt nào trông thấy nhau đây?
- Thà liều sống thác một ngày với nhau!...
Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
- Một cung gió thảm mưa sầu,
- Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
- Ve ngâm vượn hót nào tày,
- Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu...
Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự trầm.
Kim Trọng đi tìm Kiều[sửa | sửa mã nguồn]
Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:
- 勿𨉓𢭶這𣻆𩄎
- 淫洟湥玉矧蜍魂枚
- 𤴬𠾕段疙𠾕推
- 省𠚢吏哭哭耒吏迷
- Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
- Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.
- Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
- Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.
Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng giàu tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường (錢塘). Ra đến sông, mọi người gặp vãi Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mạng về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".
Đoàn tụ[sửa | sửa mã nguồn]
Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
- 身殘伴濁𢵱沖
- 羅𢘾君子恪𢚸𠊚些
- Thân tàn gạn đục khơi trong
- Là nhờ quân tử khác lòng người ta...
Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Tuy từ chối việc kết hôn với Kim Trọng, song Kiều nguyện rằng hai người sẽ trở thành bạn tri kỷ nơi câu thơ tiếng đàn, " chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".
Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
- 吟咍𨷈事在𡗶
- 𡗶箕陀八濫𠊚固身
- 八風塵沛風塵
- 朱清高買特分清高
- Ngẫm hay muôn sự tại trời,
- Trời kia đã bắt làm người có thân.
- Bắt phong trần phải phong trần,
- Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Các nhân vật trong Truyện Kiều[sửa | sửa mã nguồn]
Nhân vật Tính danh Vai trò trong tác phẩm Họ Tên Vương ông
王翁Vương
王(không nêu) Cha của Vương Thuý Kiều, Vương Thuý Vân và Vương Quan. Trong "Kim Vân Kiều truyện" hồi một nói ông tên là Vương Lưỡng Tùng (王兩松), biểu tự là Tử Trinh (子貞) nhưng trong hôn thư (婚書, văn ước kết hôn thời xưa) do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm thì lại ghi ông tên là Vương Chương (王章). Nhà ông ở Bắc Kinh (北京). Vương bà
王婆(không nêu) Vợ của Vương ông. Hồi một của "Kim Vân Kiều truyện" nói bà họ Kinh (京) nhưng trong hôn thư do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm lại ghi bà họ Hà (何). Thuý Kiều
翠翹Vương
王Thuý Kiều 翠翹 Trưởng nữ của Vương ông, Vương bà, chị cả của Vương Thúy Vân và Vương Quan. Khi Thúy Kiều làm nữ tì trong Hoạn phủ được Hoạn phu nhân đặt cho tên là Hoa Nô (花奴). Khi Kiều vào ở trong Quan Âm các có đạo hiệu là Trạc Tuyền (濯泉). Theo "Kim Vân Kiều truyện" thì cái tên Trạc Tuyền là do Thúc sinh đặt cho Thuý Kiều theo yêu cầu của Hoạn Thư. Thuý Vân Vương
王Thuý Vân
翠雲Thứ nữ của Vương ông, Vương bà, em gái của Vương Thúy Kiều, chị hai của Vương Quan là Vương Kiều Vương Quan
王觀Vương
王Quan
觀Con trai út của Vương ông, Vương bà, em của Vương Thuý Vân và Vương Thuý Kiều. Đạm Tiên
淡仙(không nêu) Đạm Tiên
淡仙Theo "Kim Vân Kiều truyện", Đạm Tiên có họ tên đây đủ là Lưu Đạm Tiên (劉淡仙). Một kỹ nữ xinh đẹp "sắc nước hương trời" nhưng bạc mệnh thời xưa. Là chủ nhân của ngôi mộ mà Thúy Kiều đã viếng và làm thơ, hiện lên trong giấc mơ của Kiều và báo trước cho nàng biết về cuộc sống trắc trở, khổ đau sau này. Kim Trọng
金重Kim
金Trọng
重Theo "Kim Vân Kiều truyện", Trọng (重) có biểu tự là Thiên Lý (千里). Là người đã đính ước với Thúy Kiều. Thằng bán tơ
繩半絲(không nêu) Người đã vu oan cho cha của Kiều. Mã giám sinh
馬監生Mã
馬(không nêu) Theo "Kim Vân Kiều truyện", Mã Giám Sinh có họ tên đầy đủ là Mã Quy (馬龜) . Và là người mua Kiều cho Tú Bà. Tú bà
秀婆Tú
秀(không nêu) Theo "Kim Vân Kiều truyện", Tú Bà có họ tên đầy đủ là Mã Tú (馬秀). Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần đầu. Sở Khanh
楚卿Sở
楚Khanh
卿Người đàn ông có tính xấu, dâm dục, lừa tình những cô gái chân yếu tay mềm. Thúc sinh
束生Thúc
束(không nêu) Còn được gọi là "chàng Thúc" (撞束), "Thúc sinh viên" (束生員, nghĩa là"sinh viên họ Thúc"), "Thúc lang" (束郎, nghĩa là"chàng Thúc"). Trong "Truyện Kiều" có câu "Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương". Theo "Kim Vân Kiều truyện", Thúc Sinh có họ tên đầy đủ là "Thúc Thủ" (束守), biểu tự là Kỳ Tâm (其心). Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần 1) và cưới nàng làm vợ lẽ. Thúc ông
束翁Thúc
束(không nêu) Cha của Thúc Sinh. Hoạn thư
宦姐Hoạn
宦(không nêu) Vợ của Thúc sinh. Trong "Kim Vân Kiều truyện" Hoạn thư được gọi là "Hoạn tiểu thư" (宦小姐, nghĩa là"tiểu thư họ Hoạn) hoặc "Hoạn thị" (宦氏, nghĩa là"họ Hoạn"). "Kim Vân Kiều truyện" và "Truyện Kiều" đều không nói nhân vật tên là gì. Hoạn phu nhân
宦夫人Hoạn
宦(không nêu) Mẹ của Hoạn thư. Khuyển
犬(không nêu) Khuyển
犬Theo "Kim Vân Kiều truyện", Khuyển có họ tên đầy đủ là Hoạn Khuyển (宦犬). Ưng
鷹(không nêu) Ưng
鷹Theo "Kim Vân Kiều truyện", Ưng có tên đầy đủ là Hoạn Ưng (宦鷹). Giác Duyên
覺緣(không nêu) Ni cô của Quan Âm các (觀音閣). Kiều đã nương nhờ nơi cửa Phật khi bị Hoạn thư đày đoạ, nhưng sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, một kẻ buôn người như Tú Bà. Sau đó khi Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, sư Giác Duyên đã cứu nàng và lần thứ hai Kiều nương nhờ cửa Phật. Bạc bà
薄婆Bạc
薄(không nêu) Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần hai. Bạc Hạnh
薄幸Bạc
薄Hạnh
幸Từ Hải
徐海Từ
徐Hải
海Một chỉ huy cướp biển, đối kháng với nhà Minh (trong nguyên tác).Trong tác phẩm của Nguyễn Du, ông đã xây dựng nhân vật Từ Hải là một người anh hùng có bản lĩnh. Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần hai) và cưới nàng làm vợ, sau đó giúp Thúy Kiều báo thù những người đã hãm hại nàng cũng như đền ơn những người giúp đỡ Kiều, hai người sống với nhau hạnh phúc."Trai anh hùng gái thuyền quyên - Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng". Hồ Tông/Tôn Hiến
胡宗/尊憲Hồ
胡Tông/Tôn Hiến
宗/尊憲Tổng đốc nhà Minh, đem quân triều đình đi tiếu phạt và giết được Từ Hải, bắt sống Thúy Kiều.
𨑮分援𨑮 Kiều thăm mộ Đạm Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Trong một lần đi tảo mộ vào tết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên (淡仙), một "nấm đất bên đường", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan", "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:
𤴬疸台分彈婆 𠳒分薄拱𠳒終 Kiều gặp Kim Trọng[sửa | sửa mã nguồn]
Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng (金重), là một người "vốn nhà trâm anh", là bạn đồng môn với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:
- Người đâu gặp gỡ làm chi,
- Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Trọng – Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo và biết giữ mình, cô đã thuyết phục được Kim Trọng chờ đợi tới ngày hai người kết hôn:
- Đã cho vào bậc bố kinh
- Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
- Ra tuồng trên bộc trong dâu.
- Thì con người ấy ai cầu làm chi
- ...
- Vội chi liễu ép hoa nài,
- Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
- Thấy lời đoan chính dễ nghe,
- Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Kiều bán mình chuộc cha và em[sửa | sửa mã nguồn]
Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Thằng bán tơ đã lén chôn một chai rượu vào vườn nhà Kiều rồi vu oan cho Vương ông tội buôn lậu rượu. Ngay lập tức, bọn sai nha xông vào, treo ngược Vương ông và Vương Quan lên trần nhà. Trong hoàn cảnh lâm li bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha và em, nhưng nàng không quên lời hẹn ước với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
- Cậy em, em có chịu lời,
- Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:
- Phận sao phận bạc như vôi
- Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
- Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
- Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.
Kiều ở Lầu Ngưng Bích[sửa | sửa mã nguồn]
Mã giám sinh (馬監生, nghĩa: "giám sinh họ Mã") vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú Bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về lầu xanh. Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về với giá 400 lượng vàng, bề ngoài Mã giám sinh tuyên bố là lấy Kiều về làm vợ. Nhưng sau khi lấy đi sự trong trắng của Kiều, "con ong đã tỏ đường đi lối về". Hắn đưa Kiều vào lầu xanh, ở đây nàng đã bị Tú bà (秀婆, nghĩa là "bà Tú") bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà hoảng hốt bèn giả vờ ngọt ngào: "Con cứ bình tĩnh. Tất cả chỉ là hiểu lầm. Nếu con cảm thấy nghề kỹ nữ là nghề nhục nhã thì thôi không phải làm nữa. Ta sẽ gả chồng cho con để lấy lại 400 lượng vàng" và nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích (凝碧). Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng
- Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
- Tin sương luống những rày trông mai chờ
- Bên trời góc bể bơ vơ
- Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
- Xót người tựa cửa hôm mai,
- Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
- Sân Lai cách mấy nắng mưa,
- Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:
- Buồn trông cửa bể chiều hôm
- Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
- Buồn trông ngọn nước mới sa
- Hoa trôi man mác biết là về đâu?
- Buồn trông nội cỏ rầu rầu
- Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
- Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
- Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi...
Kiều mắc lừa Sở Khanh[sửa | sửa mã nguồn]
Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh (楚卿), một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lừa gạt sáo rỗng của Sở Khanh.
- Than ôi! Sắc nước hương trời,
- Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?...
Kiều vội vàng tin Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
- Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
- Một tay chôn biết mấy cành phù dung!...
Bị Tú bà đánh, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
- Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
- Giật mình, mình lại thương mình xót xa…
Kiều gặp Thúc sinh[sửa | sửa mã nguồn]
Thúc sinh (束生, nghĩa là "thư sinh họ Thúc") tuy đã có vợ là Hoạn thư (宦姐, nghĩa là "chị Hoạn") nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
- Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
- Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên...
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
- Khi hương sớm khi trà trưa,
- Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn...
Thúc sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc ông (束翁, nghĩa là "ông Thúc"), cha của Thúc sinh, thừa nhận. Thúc ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
- Phong lôi nổi trận bời bời,
- Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
- Quyết ngay biện bạch một bề,
- Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!...
Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:
- Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
- Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
- Phận đành chi dám kêu oan,
- Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
- Một sân lầm cát đã đầy,
- Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
Thấy Thúc sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh.
Kiều và Hoạn thư[sửa | sửa mã nguồn]
Khi biết chuyện, cha Thúc sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi nhận thấy Thuý Kiều tâm hồn đức hạnh lại tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, cha của Thúc sinh cũng đành thừa nhận Kiều:
- Thương vì hạnh trọng vì tài,
- Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Kiều đã ở cùng Thúc sinh suốt một năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc sinh về thăm vợ cả Hoạn thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc sinh không ngờ rằng Hoạn thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn thư với cái tên là Hoa Nô (花奴). Lúc Thúc sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn và rất buồn bã
- Bốn dây như khóc như than,
- Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng.
- Cũng trong một tiếng tơ đồng,
- Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Thúc sinh bảo Hoạn thư tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các (觀音閣) sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!"," Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp vãi Giác Duyên (覺緣). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc bà (薄婆, nghĩa là " bà họ Bạc"), một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ "Bạc bà cùng với Tú bà đồng môn", Bạc bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh (薄幸). Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.
Kiều gặp Từ Hải[sửa | sửa mã nguồn]
Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải (徐海), một anh hùng lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:
- Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
- Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
- Từ rằng: "Tâm phúc tương tri
- Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?..."
Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy (于歸).
Kiều báo ân trả oán[sửa | sửa mã nguồn]
Lúc vui mừng cũng là lúc Thúy Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Bạc bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp vãi Giác Duyên, được vãi báo rằng năm năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận chưa đoàn tụ ngay được với gia đình.
Kiều tự vẫn[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
- Trên vì nước, dưới vì nhà,
- Một là đắc hiếu hai là đắc trung..
Từ Hải đã phân vân:
- Một tay gây dựng cơ đồ,
- Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
- Bó thân về với triều đình,
- Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
- Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
- Vào luồn ra cúi công hầu mà chi.
- Sao bằng riêng một biên thùy,
- Sức này đã dễ làm gì được nhau.
- Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
- Dọc ngang nào biết trên đầu có ai...
Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:
- Mặt nào trông thấy nhau đây?
- Thà liều sống thác một ngày với nhau!...
Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
- Một cung gió thảm mưa sầu,
- Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
- Ve ngâm vượn hót nào tày,
- Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu...
Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự trầm.
Kim Trọng đi tìm Kiều[sửa | sửa mã nguồn]
Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:
- 勿𨉓𢭶這𣻆𩄎
- 淫洟湥玉矧蜍魂枚
- 𤴬𠾕段疙𠾕推
- 省𠚢吏哭哭耒吏迷
- Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
- Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.
- Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
- Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.
Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng giàu tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường (錢塘). Ra đến sông, mọi người gặp vãi Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mạng về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".
Đoàn tụ[sửa | sửa mã nguồn]
Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
- 身殘伴濁𢵱沖
- 羅𢘾君子恪𢚸𠊚些
- Thân tàn gạn đục khơi trong
- Là nhờ quân tử khác lòng người ta...
Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Tuy từ chối việc kết hôn với Kim Trọng, song Kiều nguyện rằng hai người sẽ trở thành bạn tri kỷ nơi câu thơ tiếng đàn, " chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".
Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
- 吟咍𨷈事在𡗶
- 𡗶箕陀八濫𠊚固身
- 八風塵沛風塵
- 朱清高買特分清高
- Ngẫm hay muôn sự tại trời,
- Trời kia đã bắt làm người có thân.
- Bắt phong trần phải phong trần,
- Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Các nhân vật trong Truyện Kiều[sửa | sửa mã nguồn]
Nhân vật Tính danh Vai trò trong tác phẩm Họ Tên Vương ông
王翁Vương
王(không nêu) Cha của Vương Thuý Kiều, Vương Thuý Vân và Vương Quan. Trong "Kim Vân Kiều truyện" hồi một nói ông tên là Vương Lưỡng Tùng (王兩松), biểu tự là Tử Trinh (子貞) nhưng trong hôn thư (婚書, văn ước kết hôn thời xưa) do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm thì lại ghi ông tên là Vương Chương (王章). Nhà ông ở Bắc Kinh (北京). Vương bà
王婆(không nêu) Vợ của Vương ông. Hồi một của "Kim Vân Kiều truyện" nói bà họ Kinh (京) nhưng trong hôn thư do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm lại ghi bà họ Hà (何). Thuý Kiều
翠翹Vương
王Thuý Kiều 翠翹 Trưởng nữ của Vương ông, Vương bà, chị cả của Vương Thúy Vân và Vương Quan. Khi Thúy Kiều làm nữ tì trong Hoạn phủ được Hoạn phu nhân đặt cho tên là Hoa Nô (花奴). Khi Kiều vào ở trong Quan Âm các có đạo hiệu là Trạc Tuyền (濯泉). Theo "Kim Vân Kiều truyện" thì cái tên Trạc Tuyền là do Thúc sinh đặt cho Thuý Kiều theo yêu cầu của Hoạn Thư. Thuý Vân Vương
王Thuý Vân
翠雲Thứ nữ của Vương ông, Vương bà, em gái của Vương Thúy Kiều, chị hai của Vương Quan là Vương Kiều Vương Quan
王觀Vương
王Quan
觀Con trai út của Vương ông, Vương bà, em của Vương Thuý Vân và Vương Thuý Kiều. Đạm Tiên
淡仙(không nêu) Đạm Tiên
淡仙Theo "Kim Vân Kiều truyện", Đạm Tiên có họ tên đây đủ là Lưu Đạm Tiên (劉淡仙). Một kỹ nữ xinh đẹp "sắc nước hương trời" nhưng bạc mệnh thời xưa. Là chủ nhân của ngôi mộ mà Thúy Kiều đã viếng và làm thơ, hiện lên trong giấc mơ của Kiều và báo trước cho nàng biết về cuộc sống trắc trở, khổ đau sau này. Kim Trọng
金重Kim
金Trọng
重Theo "Kim Vân Kiều truyện", Trọng (重) có biểu tự là Thiên Lý (千里). Là người đã đính ước với Thúy Kiều. Thằng bán tơ
繩半絲(không nêu) Người đã vu oan cho cha của Kiều. Mã giám sinh
馬監生Mã
馬(không nêu) Theo "Kim Vân Kiều truyện", Mã Giám Sinh có họ tên đầy đủ là Mã Quy (馬龜) . Và là người mua Kiều cho Tú Bà. Tú bà
秀婆Tú
秀(không nêu) Theo "Kim Vân Kiều truyện", Tú Bà có họ tên đầy đủ là Mã Tú (馬秀). Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần đầu. Sở Khanh
楚卿Sở
楚Khanh
卿Người đàn ông có tính xấu, dâm dục, lừa tình những cô gái chân yếu tay mềm. Thúc sinh
束生Thúc
束(không nêu) Còn được gọi là "chàng Thúc" (撞束), "Thúc sinh viên" (束生員, nghĩa là"sinh viên họ Thúc"), "Thúc lang" (束郎, nghĩa là"chàng Thúc"). Trong "Truyện Kiều" có câu "Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương". Theo "Kim Vân Kiều truyện", Thúc Sinh có họ tên đầy đủ là "Thúc Thủ" (束守), biểu tự là Kỳ Tâm (其心). Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần 1) và cưới nàng làm vợ lẽ. Thúc ông
束翁Thúc
束(không nêu) Cha của Thúc Sinh. Hoạn thư
宦姐Hoạn
宦(không nêu) Vợ của Thúc sinh. Trong "Kim Vân Kiều truyện" Hoạn thư được gọi là "Hoạn tiểu thư" (宦小姐, nghĩa là"tiểu thư họ Hoạn) hoặc "Hoạn thị" (宦氏, nghĩa là"họ Hoạn"). "Kim Vân Kiều truyện" và "Truyện Kiều" đều không nói nhân vật tên là gì. Hoạn phu nhân
宦夫人Hoạn
宦(không nêu) Mẹ của Hoạn thư. Khuyển
犬(không nêu) Khuyển
犬Theo "Kim Vân Kiều truyện", Khuyển có họ tên đầy đủ là Hoạn Khuyển (宦犬). Ưng
鷹(không nêu) Ưng
鷹Theo "Kim Vân Kiều truyện", Ưng có tên đầy đủ là Hoạn Ưng (宦鷹). Giác Duyên
覺緣(không nêu) Ni cô của Quan Âm các (觀音閣). Kiều đã nương nhờ nơi cửa Phật khi bị Hoạn thư đày đoạ, nhưng sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, một kẻ buôn người như Tú Bà. Sau đó khi Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, sư Giác Duyên đã cứu nàng và lần thứ hai Kiều nương nhờ cửa Phật. Bạc bà
薄婆Bạc
薄(không nêu) Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần hai. Bạc Hạnh
薄幸Bạc
薄Hạnh
幸Từ Hải
徐海Từ
徐Hải
海Một chỉ huy cướp biển, đối kháng với nhà Minh (trong nguyên tác).Trong tác phẩm của Nguyễn Du, ông đã xây dựng nhân vật Từ Hải là một người anh hùng có bản lĩnh. Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần hai) và cưới nàng làm vợ, sau đó giúp Thúy Kiều báo thù những người đã hãm hại nàng cũng như đền ơn những người giúp đỡ Kiều, hai người sống với nhau hạnh phúc."Trai anh hùng gái thuyền quyên - Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng". Hồ Tông/Tôn Hiến
胡宗/尊憲Hồ
胡Tông/Tôn Hiến
宗/尊憲Tổng đốc nhà Minh, đem quân triều đình đi tiếu phạt và giết được Từ Hải, bắt sống Thúy Kiều.